Tuesday, August 22, 2017

Symphonie Espagnole - Lalo


Nếu bạn cần tiếp thêm năng lượng cho một tuần mới, thì đây chính là thứ nước tăng lực đóng lon thuần khiết. So sánh nó với nước tăng lực là bởi giai điệu catchy, lập tức thu hút, dễ nhớ, dễ nắm bắt và có thể khiến cho nhịp tim  tăng lên theo từng phút cùng với sự hứng khởi, xao xuyến.
"Giao hưởng Tây Ban Nha" viết ở giọng Rê thứ, tác phẩm số 21 (Symphonie espagnole in D minor, Op.21) cho violin và dàn nhạc bởi Édouard Lalo (Nhạc sĩ người Pháp), một trong vài sáng tác phổ biến nhất của nhạc sĩ cho đến giờ vẫn được biểu diễn ở "hạng mục" concerto cho violin. Phần nào cũng giống như "Khúc zigan" (zigeunerweisen) của "violinist" Pablo Sarasate - người được Lalo viết Giao hưởng Tây Ban Nha dành tặng ông. Tác phẩm thấm đẫm không khí Tây Ban Nha, sự rõ ràng, mạch lạc, giai điệu khỏe khoắn đầy màu sắc, vẻ hào hùng biến hóa xen kẽ trong nét quyến rũ say đắm, giàu kịch tính nhưng vừa đủ ở tính chất giải trí, hết sức thỏa mãn người nghe.

Nếu thích Zigeunerweisen chắc chắn bạn sẽ không thể bỏ qua tác phẩm của Lalo, một phiên bản ở cùng vũ trụ nhưng mở rộng, một bữa tiệc nhiều món (multicourses meal) vừa đủ no. Khác với Zigeuneurweisen mở đầu với bi kịch ướt át, có phần thống thiết, những âm thanh của dàn nhạc đầu tiên vang lên trong Symphonie espagnole hùng hậu, chắc khỏe, rắn rỏi trong giây lát thoáng gợi nhắc đến Brahms, cho đến khi violin solo thực sự bắt đầu diễn tấu thì tính chất Tây Ban Nha mới tràn về thấm đẫm...

Giao hưởng Tây Ban Nha được viết năm 1874 cho Pablo Sarasate, công diễn tại Paris tháng 2 năm 1875 (trước buổi công diễn vở Carmen của Bizet một tháng)

Tác phẩm gôm 5 chương nhạc ngắn, gói gọn trong khoảng nửa giờ:
1.Allegro non troppo
2.Scherzando: Allegro molto
3.Intermezzo: Allegretto non troppo
4.Adante
5.Rondo: Allegro

Ảnh hưởng lên Tchaikovsky:
Về việc được cho là Symphonie espagnole ít nhiều ảnh hưởng tới giai đoạn đầu trong sáng tác Violin concerto của Tchaikovsky, trên trang tchaikovsky-research.net cũng chia sẻ khá chi tiết.

Đầu năm 1878, Tchaikovsky cùng Iosif Kotek, học trò cũ của ông đang nghỉ dưỡng tại Clarens, bên hồ Geneva, Thụy Sỹ. Chuyến đi này là để giúp ông hồi phục những căng thẳng sau khủng hoảng hôn nhân với Antonina Miliukova.

Cùng với Kotek, khai người chơi một số trích đoạn trong danh mục tác phẩm cho violin, trong đó có Symphonie Espagnole của Lalo mà dường như đã truyền cảm hứng cho ông viết violin concerto giọng Rê trưởng. Điều này được chứng minh trong 2 bức thư gửi Nadezhda von Meck và em trai Anatoly Tchaikovsky trong tháng 3 năm 1878, Tchaikovsky nói về tác phẩm của Lalo là đầy vẻ tươi tắn, mới mẻ, giai điệu nồng ấm, với hòa âm đẹp tuyệt hảo... Lalo cũng như Leo Delibes và Bizet đã không ngừng nỗ lực, tránh những lối mòn để tìm kiếm những hình thức mới, đau đáu về vẻ đẹp của giai điệu hơn là cố gắng tái tạo truyền thống giống như các nhạc sĩ Đức...
... ông cũng nói rằng nguồn cảm hứng đang cháy trong người ông một cách bất thường, đã khiến ông xếp Grand Sonata (Sonate in G major, Op.37) đang viết dở sang một bên để bắt đầu chuyển sang sáng tác Violin concerto. Điều mà ông chia sẻ là chưa bao giờ có tiền lệ "riêng lần này, tôi không thể vượt qua được mong muốn chuyển sang phác thảo ngay một concerto trong khi phải bỏ dở sonata cho piano đang sáng tác"..

Lê Long/ nhaccodien.vn

Friday, August 4, 2017

Nikolai Myaskovsky - Cello Concerto in C minor, Op. 66

Nikolai Myaskovsky thập niên 1940

Concerto cho cello duy nhất của Myaskovsky được viết trong 3 tháng cuối năm 1944, đề tặng Svyatoslav Knushevitsky, và được công diễn lần đầu 17 tháng 3 năm 1945 tại Moscow. Tuy nhiên bản thu âm đầu tiên lại được thực hiện bởi Rostropovich năm 1956

Concerto giọng Đô thứ là một trong những sáng tác mềm mại và đáng yêu nhất của Myaskovsky, sử dụng dàn nhạc với thành phần và số lượng rất giống với Piano concerto số 1 của Brahms - gồm bộ đôi kèn gỗ, 4 kèn cor, 2 trumpet, timpani, và dàn giây - tuy nhiên có rất ít yếu tố động lượng và cấu trúc quy mô như concerto của Brahms. Nếu Myaskovsky có ý phần nào phản ánh tâm trạng cá nhân về cuộc chiến tranh đang diễn ra, thì đó là cảm giác u buồn và an ủi xoa dịu về cuối, hơn là cảm xúc giận giữ. Tác phẩm chia làm 2 chương có độ dài tương đương, tổng thời lượng kéo dài khoảng nửa giờ.

1.Lento ma non troppo - Adante - Tempo I
2.Allegro vivace - Piu marcato - Meni mosso - Tempo I


Svyatoslav Knushevitsky cùng Oistrakh, Lev Oborin
Tác phẩm bắt đầu với một đoạn Lento dồn nét vừa phải, giai điệu mở đầu bi ai, có phần dè dặt, tô điểm bằng tông màu tối bởi dàn dây và bassoon (kèn fagot), tất cả dẫn đến đoạn giai điệu chủ đề tuyệt đẹp của cello chực chờ được hé lộ - đây là điểm nhấn đặc biệt ấn tượng ngay từ những phút đầu khiến người nghe khó có thể quên, có thể nói chính là thứ mà khiến Cello concerto của Myaskovsky thiết lập được chỗ đứng trong bản đồ âm nhạc. Sáo và oboe dần hòa thêm chút sắc thái tươi sáng. Thay vì hướng tới những đoạn kỹ thuật phức tạp, trưng trổ vốn phải có, vai trò của cello ở chương đầu chỉ là đưa ra và giữ vững tuyến giai điệu chính, với những biến đổi vừa phải, chính nhờ vẻ đơn giản, tự nhiên vừa phải đó mà vẻ đẹp và sự lôi cuốn của giai điệu chủ đề trở nên chân thành đến khó quên. Nghệ sĩ độc tấu chỉ được phô diễn đôi chút với đoạn cadenza ngắn ở cuối chương 1.

Chương 2, allegro vivace, mở đầu với chủ đề tiết tấu nhanh gần với vũ khúc dân gian tarantella (nhịp 6/8), nơi cello mang đến thêm một chủ đề dân gian. Những yếu tố đa dạng được đan dệt vào nhau làm nên một phức hợp âm nhạc. Sau một cadenza dành cho cello, dàn kèn đồng đưa người nghe tới đoạn tái hiện đầy đam mê dựa trên chủ đề mở đầu chương 1 (có phần trang nghiêm đánh dấu bởi timpani gây xáo động). Những nét giai điệu bi ai của chủ đề mở đầu lại thêm một lần được xuất hiện trọn vẹn, và rồi tác phẩm kết thúc trong âm thanh dịu nhẹ, yên bình, ở giọng Đô trưởng.

Myaskovsky và Khachaturian (một trong những học trò xuất sắc của Myaskovsky), ảnh năm 1933 
Cello concerto giọng Đô thứ op.66, cùng với Symphony số 21 (1940) đều giành giải Stalin trong thập niên 1940. Myaskovsky cũng nằm trong danh sách các nhạc sĩ bị đánh trong giai đoạn chống "chủ nghĩa hình thức" (formalism) diễn ra năm 1948, chỉ 2 năm trước khi ông qua đời.

Lê Long/ nhaccodien.vn  - Dựa theo Chris Morrison trên Allmusic