Tuesday, January 10, 2023

Tranh Lễ rước dâu trên vịnh hẹp Hardanger - Hans Gude và Adolph Tidemand

"Đám rước dâu trên vịnh hẹp Hardanger",
Tác giả: 2 họa sĩ Nauy, Hans Gude (vẽ bối cảnh) và Adolph Tidemand (vẽ nhân vật).
Tranh sơn dầu (kích thước 93x130cm) hoàn thành năm 1848
Hiện đang trưng bày tại Bảo tàng quốc gia, Oslo, Nauy
-
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của hội họa Nauy. Nếu chỉ mới quan sát bức tranh lần đầu thì có lẽ bất kỳ ai cũng có thể cảm thấy nó đại diện chính xác cho bầu không khí vùng Nordic, bị hấp dẫn nơi quang cảnh được thể hiện, vẻ đẹp của thiên nhiên kỳ vĩ nhưng thi vị, hài hòa với cuộc sống vui tươi, bình dị đậm bản sắc của người dân địa phương (rất giống với những mặc định trong quảng cáo du lịch ). Bức tranh là ví dụ tuyệt vời về chủ nghĩa lãng mạn dân tộc của Nauy, sự kết hợp hoàn hảo giữa phong cảnh lãng mạn với những hình ảnh về cuộc sống truyền thống.
Do đó mà tác phẩm đã trở thành đại diện cho phong trào văn hóa quốc gia trong thời kỳ người Nauy đang nỗ lực định hình và thể hiện bản sắc riêng biệt ở tất cả các lĩnh vực nghệ thuật (gồm cả ngôn ngữ). Hans GudeAdolph Tidemand tiêu biểu trong hội họa, bên cạnh những tên tuổi quốc gia như Evard Grieg trong âm nhạc...
Năm 1926, Đạo diễn Rasmus Breistein còn cho ra dời bộ phim câm cùng tên và lấy cảm hứng trực tiếp từ bức tranh, bộ phim cũng trở thành một tác phẩm kinh điển của điện ảnh Nauy
-
Có lẽ có không ít các tranh phong cảnh xuất sắc khác (ở khía cạnh kỹ thuật và hấp dẫn thị giác) cùng thời kỳ, tuy nhiên 2 yếu tố cơ bản làm nên vị trí đặc biệt của “Đám rước dâu trên vịnh hẹp” là ý đồ sáng tác và cách lựa chọn, xử lý chủ đề, bố cục để đạt được hiệu quả mong muốn của tác giả.
-
Bối cảnh:
Adolph Tidemand (1814-1876) ở tuổi 29, sau thời gian định cư và học ở Dusseldorf (từ 1837 - 1841), năm 1843 đã quay trở lại Nauy thăm vịnh hẹp Hardanger và gặp Hans Gude (1825-1903) tại đây, Gude kém Tidemand 11 tuổi nhưng cũng học tại Học viện Nghệ thuật Dusseldorf, khi đó đang là sinh viên năm 2. Hai người đã nhanh chóng trở nên thân thiết và hợp tác trong một số bức tranh phong cảnh, trong đó Tidemand vẽ nhân vật, khía cạnh mà Gude còn yếu.
Chuyến đi đã giúp gia tăng mối quan tâm của Tidemand với lịch sử Nauy về sau, trong thời kỳ trên khắp châu Âu, xu hướng dân tộc cũng đang nổi lên mạnh mẽ với cao trào là Cách mạng năm 1848. Trong các thế kỷ trước đó, tinh thần dân tộc dường như không phải là một thứ tất yếu với phần lớn người dân lục địa này, bởi chính trị vốn là câu chuyện của vua chúa, lãnh đạo tôn giáo, thành viên các dòng họ có thế lực như nhà Medici, Habsburg hay Bourbon... thay nhau cai trị các quốc gia hùng mạnh. Bản thân cuộc đấu tranh dành độc lập của Cộng hòa Hà Lan trong chiến tranh 80 năm phần nhiều vì mục đích tôn giáo và kinh tế nhiều hơn là dân tộc...
-
Về phần Nauy, bản sắc của họ vốn đã bị pha loãng và ít được biết đến sau gần 500 năm dưới cái bóng ảnh hưởng của Đan Mạch và Thụy Điển, Nauy suy yếu sau Đại dịch Đen (1349) đã gia nhập Liên minh mà Đan Mạnh nắm phần lãnh đạo từ 1523-1814, sau đó là một liên minh phức tạp với Thụy Điển trong thế kỷ 19 nhưng phần nào đã có vị thế được nâng cao hơn trước, đây cũng là giai đoạn phát triển ý thức dân tộc Nauy.
-
Dù mang lại vị thế sau này cho Gude, nhưng "tinh thần dân tộc" cũng là khía cạnh khiến Hans Gude cũng như nhiều họa sĩ Nauy khác phải phiền lòng trong nhiều năm bởi ông cũng như phần lớn các họa sĩ thành danh khác, đều phải lựa chọn phát triển sự nghiệp tại Đức, sống trong tinh thần quốc gia Đức thấm đẫm mọi khía cạnh đã gây ra không ít áp lực cho họ.
-
Xử lý chủ đề, bố cục:
Mong muốn vẽ một bức tranh giới thiệu về văn hóa truyền thống và thiên nhiên Nauy, là yếu tố ảnh hưởng lớn đến cách chọn chủ đề và sắp xếp bố cục của 2 họa sĩ, tác giả rất thông minh và khéo léo khi chọn mô tả một đám cưới vùng quê ở góc độ như ta thấy, đủ xa cách để show ra tất cả những đặc điểm cần phải có của một đám cưới: nhà thờ, đám đông ở khoảng cách xa hòa cùng không gian sống nằm giữa thiên nhiên hiền hòa, trong lành. Bầu không khí sôi nổi, tươi vui của đám cưới sẽ thật dễ chịu khi quan sát... từ xa, khác với cái ồn ào có phần nhộn nhạo, bức bối (với những người dị ứng với đám đông) như trong "Đám cưới nông dân" của Bruegel già (hình 2). Dĩ nhiên giá trị và ý đồ của mỗi bức tranh mà họa sĩ muốn hướng đến là khác nhau, so sánh với hướng đi của Bruegel the elder để cho thấy 2 họa sĩ Nauy muốn tập trung hơn vào nét tổng thể, lối sống hiền hòa giữa thiên nhiên của người dân Nauy nhưng ko kém sức sống, một kịch bản đẹp để quảng bá du lịch (lãng mạn hóa).
-
Điểm hút với sức nặng hình thể của tranh nằm ở chiếc thuyền rước dâu chật ních người (vị trí focal point gần tiền cảnh), giúp trình bày rõ hơn những nét truyền thống đặc trưng, từ hình ảnh của trang phục, đến âm thanh (tiếng vĩ cầm, tiếng súng, tiếng rót rượu...).
-
Sự phân bố ánh sáng cũng vô cùng hợp hợp lý, cô dâu ở đuôi thuyền nhận nguồn sáng chính, nổi bật cùng với sắc áo đỏ truyền thống của vùng Hardange, đầu đội vương miện. Chú rể chìm trong tối nhưng với rim light ở cánh tay, cùng góc mặt bán diện giúp làm rõ đường biên tổng thể, ngăn cách giữa cô dâu và 2 nhân vật nữ với biểu cảm và được chiếu sáng hết sức sinh động, đang hướng mắt lên người cầm súng. Sự xen kẽ giữa các phần được chiếu sáng/ tối, mảng màu đậm và nhẹ, đường biên hình bố trí khéo léo sinh động giúp chỉ riêng đám người trên thuyền cô dâu cũng đã là một bức tranh hoàn chỉnh lý thú...
Cách xử lý tương tự với phần thuyền đằng xa và đám rước kéo dài trên bờ, nơi đoạn đường đất dưới nắng vàng tôn lên hình bóng của con người, phản ánh không khi hội hè với hậu cảnh là mảng màu tối tạo bởi shape nhà thờ, nhà ở xen kẽ lẫn cây cối...
2 họa sĩ đã phối hợp quá nhuần nhuyễn trong một bố cục mà ai cũng phát huy được tối đa thế mạnh của mình.
-
Mặc dù mang lại một ấn tượng chính xác gắn với vùng vịnh hẹp Hardangerf sông băng Folgefonna, nhưng theo lối vẽ truyền thống (thực hiện trong studio thay vì vẽ trực tiếp bên ngoài), Gude đã không mô phỏng lại từ một góc nhìn cụ thể trên thực địa, mà là một hình ảnh tổng hợp được tạo ra từ những quan sát của anh.
-
Bức tranh được đặt làm phông nền cho một hoạt cảnh. Được tổ chức tại Nhà hát Christiania của Nauy vào tháng 3 năm 1849, bao gồm một nhóm sân khấu mặc trang phục truyền thống trên thuyền biểu diễn bài hát "Brudefærden" ("Đám cưới") của Andreas Munch với âm nhạc của Halfdan Kjerulf, bức tranh chính là phông nền sân khấu.
-
Bức tranh có tới 5 phiên bản được biết đến, mỗi phiên bản đều có sự khác biệt. Phiên bản chính năm 1848 đã được Phòng trưng bày Quốc gia ở Oslo mua lại vào năm 1895. Phiên bản thứ hai năm 1848 với Ole Bull hóa thân vào vị trí người chơi đàn trên thuyền, ông là nghệ sĩ violin tiêu biểu của Nauy được Schumann xếp ngang hàng với Paganini. Ba phiên bản được vẽ vào năm 1853, trong đó một phiên bản đã được bán tại Grev Wedels Plass Auksjoner vào năm 2002 với giá 5,1 triệu NOK (khoảng 12 tỷ VND).
-
Quan sát kỹ hơn phiên bản 1853 (hình 3) để thấy rõ về lựa chọn, cách sắp đặt tài tình trong phiên bản 1848:
Bản 1853 khác biệt ở sự gia tăng đáng kể về tính chất náo nhiệt, hội hè của lễ cưới, nơi khẩu súng được khai hỏa thể hiện qua lớp khói, thêm người đánh trống và sự tương tác giữa những người tham dự lễ - người trên thuyền cô dâu và người ở thuyền theo sau...
-
Trong bản 1853, 2 thuyền quanh cô dâu dường như đã ra giữa sông, xa cách, gần như ngắt kết nối với phần còn lại của đám rước và không gian sinh sống trên bờ... thuyền dâu gần như xoay ngang với các nhóm người mang tính chất liệt kê, mất đu sức hút nhờ phối cảnh và hiệu quả ánh sáng, các nhân vật kề nhau khá đều về tỉ lệ lẫn tương đối đồng nhất về ánh sáng, dẫn đến cảm giác nhàm chán về thị giác.
-
Không còn được che bớt bởi núi, nhóm thuyền nhận ánh sáng bao trùm từ mặt trời và bầu trời khiến bức tranh có độ tương phản kém, sắc xanh lục của mặt nước và những dãy núi ngả vàng khiến tổng thể ấm nhưng ngả xanh lá, vàng.
-
Có lẽ cũng là chủ đích của tác giả khi sự lấn át của tông màu ấm ở bản 1853 cũng góp phần tập trung hơn vào tính chất hội hè, xôm tụ có phần huyên náo của đám rước thay cho một tổng thể hài hòa giữa con người và thiên nhiên trong bản 1848.
-
Đắm mình một chút trong bản năm 1853, rồi quay trở lại với bức vẽ gốc (hình 1) giúp chúng ta thấy rõ hơn cái hiệu quả tổng thể tuyệt vời của bản năm 1848. Bầu không khí như giảm đi vài độ C, một sự gắn kết chặt chẽ với đầy đủ tương phản và biến chuyển tinh tế trong yên bình...
Trong bản gốc, cuối cùng thì thiên nhiên ở “hậu cảnh” có lẽ mới là ấn tượng đầu tiên của bức tranh này (thứ mà ở bản 1853 cũng suy giảm, khi chỉ giữ đúng vai trò là bổ trợ cho nhóm nhân vật). Sự sinh động của thảm thực vật, của hòa sắc nóng lạnh xen kẽ, chất liệu của đá, cây và nhất là mặt nước, với những đám cây nằm dưới nước sát bờ được thể hiện hết sức tinh tế là những yếu tố khiến người xem có thể ngắm nhìn không chán mắt.
-
Bức tranh cũng là ví dụ hoàn hảo về Atmospheric Perspective, sự suy giảm về chi tiết và bầu không khí được thể hiện vô cùng lôi cuốn trong tranh, với những rặng núi từ gần tới xa được sắp đặt khéo léo về thị giác đồng thời phản ánh đúng cấu trúc tự nhiên của vùng vịnh hẹp.
-
Lê Long/ Cloudmolding - Tổng hợp và diễn giải

Bài "Brudefærden" ("Đám cưới") của Andreas Munch với âm nhạc của Halfdan Kjerulf, biểu diễn tại hội trường Đại học Olso, ở giữa sân khấu là tranh Mặt trời của Evard Munch
https://youtu.be/T7q8_4776-k

Phim "Đám cưới ở vịnh Hardanger" năm 1926 của Rasmus Breistein lấy cảm hứng, tiếp nối ảnh hưởng của tranh năm 1848
https://youtu.be/16mdvFZaFr0